Huyền Không Phi Tinh Là Gì? Giá Trị Của Huyền Không Phi Tinh Trong Phong Thuỷ

Rate this post

Huyền không phi tinh là gì và ý nghĩa của nó trong phong thủy:

  Phong thủy được phân biệt bằng các môn khoa học tâm linh: Xem ngày giờ tốt xấu ứng hợp cho từng công việc, tuổi tốt xấu với từng sự vụ hay việc gì đó, tử vi, tứ trụ, luận quy luật vũ trụ,…

Có 3 trường phái phong thuỷ được ứng dụng phổ biến là: bát trạch, phái loan đầu, phái lý khí hay còn gọi là huyền không phi tinh.

Ngày nay người thầy phong thuỷ phái huyền không phi tinh kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý khí và loan đầu ứng hợp phi tinh để luận đoán.

  Huyền không phi tinh là phong thủy chuyên nghiên cứu, đánh giá sự dịch chuyển của các sao theo phong thủy phương hướng. Mỗi sao sẽ nắm giữ sự vụ khác nhau khác nhau, ứng với thời vận vượng suy của phi tinh.

Có 9 phi tinh: 

Nhất Bạch Thuỷ tinh, Nhị Hắc Thổ tinh, Tam Bích Mộc tinh, Tứ Lục Mộc tinh, Ngũ Hoàng Thổ tinh, Lục Bạch Kim tinh, Thất Xích Kim tinh, Bát Bạch Thổ  tinh, Cửu Tử Hoả tinh.

  Phong thủy huyền không phi tinh thuộc về quy luật thiên văn học, được khám phá và đúc kết hàng nghìn năm.

Dựa trên sự dịch chuyển của các chòm sao. Qua đó, dự đoán được xui rủi may mắn và đưa ra biện pháp cải thiện, giúp tránh được vận rủi và đón vận may đến.

Cho nên Huyền không học là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích.

Trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự cát, hung, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).

Nhưng tại sao lại phải dựa trên đồ hình Bát quái? Đó là vì ngay từ thời xa xưa, cổ nhân đã biết phác họa ra Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời (thiên văn), Đất (địa lý) vào đó.

Theo “Lục kinh đồ”, phần “Ngưỡng quan thiên văn đồ” thì “Phục Hy quan sát thiên văn mà vẽ ra Bát quái.

AAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAAA

Do đó, phàm những gì thuộc về thiên văn như vòng vận hành của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày tháng, bốn mùa. . . không gì mà Bát quái không thu tóm”.

Còn sách Phủ Sát địa lý thì viết “Cúi xuống xem xét địa lý mà vạch ra 8 quẻ, cho nên phàm những gì liên quan tới lý lẽ của Đất (địa) như bốn phương chín châu, điểu, thú. thảo mộc, mười hai chi sở thuộc. . . không gì mà Bát quái không cai quản”.

Lạc thư

Chuyện kể lại ông hoàng đại vũ thời gian trước đi trị thủy trên con sông lạc thì gặp rùa thần trỗi dậy, trên lưng có hình cửu tinh (?). Quốc vương đại vũ cho sao ghi lại và gọi là vì lạc thư.

Khẩu quyết của lạc thư là :………….
Lượng thiên xích
Còn được biết với tên cửu tinh đãng quái là thứ tự đi lại của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái. Là lượng thiên xích vì đây được xem là 1 dụng cụ ( xích : cây thước ) để định lượng ( lượng ) thiên vận ( thiên ).

Nói 1 cách khác , lượng thiên xích chính là cách suy tính để phát hiện các quãng thời gian cát , hung, họa phước cho dương trạch và âm trạch.

Còn sự di chuyển của cửu tinh theo vòng lượng thiên xích là căn cứ sắp xếp số trong lạc thư ( hay hậu thiên bát quái ) mà đi , bắt đầu từ chính giữa ( tức trung cung ).

Bởi vậy nếu nhìn vào sắp xếp các con số trong hậu thiên bát quái thì mọi người sẽ thấy số ,jjyggkhhl.lkjl;

Bởi thế quỹ đạo của vòng lượng thiên xích như sau :
đó thực sự là bộ pháp (cách lưu thông) của cửu tinh. Cần biết được nó mới có khả năng biết cách bài bố tinh bàn cho 1 trạch vận mà luận tiên liệu cát, hung được.

Sự vận tải thuận, nghịch của cửu tinh:
Mặc dù cửu tinh di cư theo 1 quỹ đạo khăng khăng là từ trung cung xuống tây bắc , rồi từ đó lên tây. . . , tuy nhiên lúc di dời thì chúng sẽ làm nên 2 tình cảnh :
1) di cư thuận: theo sắp xếp từ số nhỏ lên số lớn , ví dụ như từ 5 ở trung cung xuống 6 ở tây bắc, rồi lên 7 ở phía tây, xuống 8 phía đông bắc…;
2) đi đường nghịch: theo sắp xếp từ số lớn xuống số nhỏ, ví như từ 5 ở trung cung xuống 4 ở tây bắc, lên 3 ở phía tây, xuống 2 nằm ở phía đông bắc …
Sự đi lại thuận, nghịch của cửu tinh là triệt để bằng những cứng nhắc phân định âm-dương của tam nguyên long.

Tính chất cửu tinh trong huyền không học:
Huyền không phi tinh bằng những phẩm chất và sự di chuyển của 9 sao ( tức cửu tinh hay 9 số ) mà tiên liệu định họa, phúc của từng căn hộ ( dương trạch ) hay từng phần mộ ( âm trạch ).

Vì lẽ đó, thấy được rằng phẩm chất của từng sao, và quỹ đạo đi vào hoạt động của chúng là điều cơ bản thiết yếu cho tổng cộng bất kỳ ai muốn điều tra hay tìm hiểu về huyền không học.

Bởi thế trước thời điểm bước vào những nguyên lý cơ bản của huyền không học thì nên biết sơ qua về đặc tính của cửu tinh.

Cửu tinh:
Cửu tinh có nghĩa là 9 con số, từ số 1 tới số chín, với mỗi số đều có đặc tính và ngũ hành độc đáo, đại lược như sau :
Số 1: còn có tên gọi là sao Nhất Bạch Thuỷ hoặc Tham Lang tinh: có những phẩm chất như sau:
• về ngũ hành: thuộc thủy
• về sắc thái: thuộc màu trắng
• về thân hình: là thận, tai và máu huyết
• về người: là con giai thứ trong nhà.
• về phẩm chất: nếu vượng hay đi với những sao 4 , 6 thì chủ về văn tài xuất sắc, công danh sự nghiệp, công danh lên chức. Nếu suy, tử thì nhiễm bệnh về thận và khí huyết, công danh sự nghiệp không thuận lợi, bị trộm cướp hay tạo nên trộm cướp.
Số 2 còn có tên gọi là sao Nhị Hắc Thổ hay Cự Môn tinh, có những phẩm chất sau :
• về ngũ hành : thuộc thổ.
• về sắc thái : thuộc màu đen.
• về thân hình : là bụng và bao tử.
• về người : là mẹ hoặc vợ trong nhà.
• về phẩm chất : nếu vượng thì điền sản đủ đầy, phát về võ nghiệp, con cháu kín nhà. Suy thì bệnh tật triền miên, trong gia đình nảy sinh quả phụ.

Số 3 còn có tên gọi là sao Tam Bích Mộc hay Lộc Tồn tinh, có những phẩm chất sau :
• về ngũ hành: thuộc mộc.
• về sắc thái: thuộc màu xanh lá cây.
• về thân hình: mật, vai và 2 tay.
• về người: là con giai trưởng trong nhà.
• về phẩm chất: nếu vượng thì con trưởng phát đạt , lợi cho buôn bán, vợ lớn tốt. Nếu suy thì khắc vợ và hay bị khiếu kiện, tranh giành.
Số 4 còn có tên gọi là sao Tứ Lục Mộc hoặc Văn Xương tinh, có những đặc tính sau :
• về ngũ hành: thuộc mộc.
• về sắc thái: thuộc màu xanh dương ( xanh da trời ).
• về thân hình: gan, đùi và 2 chân.
• về người: là con gái trưởng trong nhà.
• về đặc tính: nếu vượng hoặc đi với sao nhất bạch thì văn chương được nhiều người biết đến, thi đỗ cao, con gái thanh tú, lấy chồng giàu sang. Nếu suy, tử thì trong gia đình nảy sinh người dâm đãng, lang bạt đó đây , bệnh về thần kinh.
Số 5 còn có tên gọi là sao ngũ hoàng, có những phẩm chất sau :
• về ngũ hành: thuộc thổ.
• về chủng màu: thuộc màu vàng.
• về thân hình và con người: không xét.
• về phẩm chất: nếu vượng thì tài lộc, nhân đinh đều phát, phú quý tuy nhiên toàn. Nếu suy thì chủ nhiều hung họa, bệnh tật, biến cố, bỏ mạng, chết chóc …

Số 6 còn gọi là sao Lục Bạch hoặc Vũ Khúc tinh : có những tính chất sau:

  • Về Ngũ hành: thuộc Kim.
    • Về màu sắc: thuộc màu trắng, bạc.
    • Về cơ thể: đầu, mũi, cổ, xương, ruột già.
    • Về người: là chồng hoặc cha trong gia đình.
    • Về tính chất: nếu vượng hoặc đi với sao Nhất Bạch thì công danh hiển hách, văn võ song toàn. Nếu suy dẫn đến không những khắc vợ mà còn mất con, rồi còn bị quan tụng, bệnh xương cốt (dễ gãy).

Số 7 còn gọi là sao Thất Xích hoặc Phá Quân tinh có những tính chất sau:

  • Về Ngũ hành: thuộc Kim.
  • Về màu sắc: thuộc màu đỏ.
  • Về cơ thể: phổi, miệng, lưỡi.
  • Về người: là con gái út trong gia đình.
  • Về tính chất: nếu vượng thì hoạnh phát về võ nghiệp hoặc kinh doanh. Nếu suy thì bị trộm cướp hay tiểu nhân làm hại, đễ mắc tai họa về hỏa tai hay thị phi, hình ngục.

Số 8 còn gọi là sao Bát Bạch Thổ hoặc Tả Phù tinh có những tính chất sau:

  • Về Ngũ hành: thuộc Thổ.
    • Về màu sắc: thuộc màu trắng.
    • Về cơ thể: lưng, ngực và lá lách.
    • Về người: là con trai út trong gia đình.
    • Về tính chất: nếu vượng thì nhiều ruộng đất, nhà cửa, con cái hiếu thảo, tài đinh đều phát. Nếu suy thì tổn thương con nhỏ, dễ bị ôn dịch.

Số 9 còn gọi là sao Cửu Tử Hoả hay Hữu Bật tinh, có những tính chất sau:

  • Về Ngũ hành: thuộc Hỏa.
    • Về màu sắc: màu đỏ tía.
    • Về cơ thể: mắt, tim, ấn đường.
    • Về người: con gái thứ trong gia đình.
    • Về tính chất: nếu vượng thì nhiều văn tài, quý hiển sống lâu. Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn, đau mắt, sinh đẻ khó khăn.

Như vậy, Bát quái chính là sự thu tóm những biến chuyển của Trời, Đất, còn sự di chuyển của 9 con số (còn được gọi là Cửu tinh) theo vòng Lượng thiên Xích chính là những biến hóa, thay đổi của sự vật.

Kết hợp những yếu tố này với nhau, tức là đưa sự vận hành của Cửu tinh theo vòng Lượng thiên Xích vào trong đồ hình của Bát quái để thu tóm mọi biến chuyển của Trời, Đất và sự vật chung quanh.

Tức là những yếu tố khách quan bên ngoài có tác động, ảnh hưởng tới 1 căn nhà hay 1 ngôi mộ thì đương nhiên sẽ biết được vận khí tốt, xấu của căn nhà hay ngôi mộ đó theo từng thời gian nhất định.

Đây chính là nguyên nhân của sự hình thành và phát triển của trường phái Phong thủy mang danh là “Huyền không học” hay Huyền Không Phi tinh.

Sau khi đã có sơ đồ phi tinh, tiến hành luận đoán tốt xấu để có phương án bài trí cho phù hợp. Hai cung quan trọng nhất đó là toạ và hướng, bởi hướng là nơi nạp Thiên khí vào nhà chủ quản hoạ phúc.

Toạ là nơi nạp Địa khí chủ về nhân đinh, hậu vận. Mỗi cung toạ và hướng có các Phi Tinh Sơn và Hướng, căn cứ vào Sơn Tinh và Hướng Tinh kết hợp để luận đoán tốt xấu. Sau đây luận các cách kết hợp của Sơn Tinh và Hướng Tinh.
Luận phải lấy vượng làm chính, lấy suy mà làm ngược lại. Vượng tinh thì tốt chủ cát lành, suy tinh thì chủ hung bại.

Đương nhiên vượng tinh chúng cần sinh phù, sát tinh thì cần thu sơn xuất sát mới được  Những cửa chính, cửa phụ được cát tinh sinh vượng chiếu nên sinh hoạt, đi lại nhiều hoặc mở cửa sổ lớn để đón khí.

Trường hợp bị hung tinh suy tử chiếu thì cần có cách thức trấn yểm, hoá giải phù hợp, tốt nhất là hạn chế đi lại hoặc mở cửa ở phương khác tốt hơn

Nhất Bạch
1-1: Đào hoa, vượng ứng với quan tinh, chủ văn xương, độc thư, thông minh, văn tài xuất chúng. Suy ứng với tai máu thận suy, di tinh tiết huyết, dâm đãng, xảy thai, bất đắc chí.
1-2: Dễ mắc bệnh dạ dày, ruột, bệnh thận, tai máu, nữ mắc phụ khoa, đẻ non, sảy thai. Trung nam không thuận phải ly tổ bôn ba, quan lộc bị x âm hại.
1-3: Tranh chấp, quan phi, đạo tặc, phá tài
1-4: Ra ngoài có lợi, dễ thăng chức, văn chương phát quý nổi danh, tài vượng, phụ nữ sang quý. Nếu suy sinh dâm đãng.
1-5: Tổn hại nhân đinh, dễ mắc bệnh thận, tai máu, trung nam bị tổn hại.
1-6: Phú quý cát lợi, văn tài thông minh, hãm thì dâm loạn
1-7: Đào hoa, ra ngoài cát lợi. Nếu hãm thì thương tích, thị phi, tham luyến tửu sắc.
1-8: Phạm bệnh tật tai máu, trung nam bất lợi tha hương lưu lạc.
1-9: Thuỷ hoả không hoá hợp được, dễ bệnh tật mắt, có vấn đề tinh thần, không có hậu vì trước thì tốt nhưng sau xấu.

Nhị Hắc

2-1: Nữ bệnh phụ khoa, tràng vị, nam mắc bệnh tai máu thận, trung nam tổn hại.
2-2: Bệnh tật, nữ bệnh phụ khoa, nam mắc bệnh đường ruột. Đắc v ận thì giàu có.
2-3: Cách Đấu Ngưu sát chủ quan phi, kiện tụng, khẩu thiệt. Mẹ già tổn hại.
2-4: Bất hoà, bệnh phong hàn, khẩu thiệt, kiện tụng, sinh nở khó, hại mẹ già.
2-5: Tổn thất nhân đinh, cô quả, mẹ nhiều bệnh.
2-6: Đất đai vượng phát, tăng tài, buôn bán phát đạt.
2-7: Có sự gia tăng tài lộc, nhiều hỷ sự, nếu bị suy, dễ phạm đào hoa, khẩu thiệt, tán gia bại sản.
2-8: Cách cuộc hợp thập cho nên chủ về cát lợi, đi xa không những dễ dàng mà có lợi.
2-9: Sinh đẻ nhiều, nếu vượng chủ văn tài, thất vận phòng bệnh tật, sinh người ngu đần.

Tam Bích

3-1: Thị phi khẩu thiệt tranh đấu, phá tài. Nếu đắc lệnh thì phát quý.
3-2: Cách Đấu Ngưu sát chủ thị phi tranh đấu, đạo tặc, hại mẹ già, bệnh đường ruột.
3-3: Quan phi, thị phi, đạo tặc, đắc lệnh thì phú quý.
3-4: Đào hoa, kiếp tặc, hại cho nữ. Đắc lệnh văn tài phú quý nổi danh.
3-5: Hại tì vị, chủ nhân bất an, hại cho trưởng nam.
3-6: Trưởng nam bất lợi, quan phi, thương tích chân tay, đắc lệnh thì quyền uy, phát văn tài.
3-7: Phá tài, kiếp đạo, dâm đãng, hại trưởng nam
3-8: Bất lợi nhiều bệnh tật, phá tài, tuyệt hậu
3-9: Thông minh tiến tài, sinh quý tử

Tứ Lục

4-1: Đào hoa dâm đãng, nếu sinh vượng thì xuất ngoại thành danh, văn tài xuất chúng
4-2: Phần tỳ vị dễ bệnh tật, thiệt hại cho mẹ già.
4-3:  Trong nhà có dâm loạn, trộm cắp, thiếu nữ bị thiệt thòi nhiều.
4-4: Đào hoa, ly tổ, sinh vượng thì có quý nhân phù trợ, văn tài thành danh.
4-5: Nhiều bệnh tốn tài. Được thời thì có nhà cao cửa rộng.
4-6: Trước lành sau xấu, khó sinh, bất lợi trưởng nữ
4-7: Dễ bị cô quả, gia đạo không thuận hoà, coi chừng đao thương hay thổ huyết, thiệt hại nhiều cho trưởng nữ. Được thời thì xuất hiện giai nhân tài sắc vẹn toàn.
4-8: Tổn tài, hại thiếu nam, bệnh phong tật thấp khớp, đào hoa. Tốt lành tiến tài, lợi điền sản.
4-9: Sinh quả phụ, đào hoa. Sinh vượng thì Mộc Hoả thông minh, xuất hiện danh sĩ.

Ngũ Hoàng

5-1: Tổn hại nhiều nhân đinh, trung nam tổn hại, có nhiều bệnh tật, đặc biệt là bị bệnh về: tai, đường máu, cầu thận.
5-2: Dễ sinh ra cô quả, quả  phụ, nhiều bệnh tật, có thể thiên về bệnh tỳ vị.
5-3: Trưởng nam thương tổn, dễ phá tài, có nhiều bệnh tật
5-4: Tán gia bại sảni, tổn hại nhân khẩu, nhiều bệnh tật
5-5: Rất xấu cho gia chủ, xuất hiện bệnh tật, rất dễ hao người tốn của
5-6: Nếu sinh vượng thì tốt cho gia chủ
5-7: Bệnh tật, tại nạn vì đạo thương, đắc vượng khí thì tài lộc tăng phi mã, có nhiều hỷ sự
5-8: Thiếu nam bất lợi, Nếu đắc thì cát chủ hoạnh phát tài.
5-9: Phụ nữ trong nhà sinh nở khó khăn, dễ sinh bệnh tật, thương vong, ăn chơi phá tài

Lục Bạch

6-1 : Sinh đào hoa, có tính dâm loạn, phụ nữ sinh nở khó khăn. Đắc tinh thì quan lộc hanh thông, học hành sáng sủa.
6-2: Thường bệnh tật, đặc biệt là bệnh phụ khoa, hao tổn tài lộc.
6-3: Tai nạn, bất an, hại trưởng nam
6-4: Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ
6-5: Tinh thần dễ tổn thương, đắc vượng thì phát tài mạnh mẽ.
6-6: Hại trưởng nam, người già, đắc thì quan vận tốt, quyền hành, văn tài xuất hiện.
6-7: Đao kiếm sát phạm đao thương, tổn tài, thị phi quan tụng
6-8: Đại cát nhiều hỷ sự, lợi quan lộc
6-9: Bệnh phế, bệnh đườn  huyết, coi chừng tai hoạ vì lửa, tổn hại cha già về sức khoẻ và…

Thất Xích

7-1: Kim thuỷ đa tình đào hoa, ly hương xuất ngoại, tổn hại lục súc
7-2: Khẩu thiệt thị phi hoả tai. đắc vận thì hợp thành Hoả tiên thiên lợi nhị hắc nên phát tài.
7-3: Thương trưởng nam, bội nghĩa, thị phi, bệnh tật, quan phi
7-4: Tổn hại trưởng nữ, dễ đao thương sát, thần kinh có vấn
7-5: Nhiều bệnh bất an, tửu sắc phá tài
7-6: Đao kiếm sát, tổn tài, sinh nhiều nữ
7-7: Tổn tài, thị phi. Sinh vượng thì hỷ sự phát tài, sinh nhiều nữ
7-8: Cầu tài danh đều lợi, nam nữ đa tình
7-9: Tai nạn bệnh tâm khí, hại cho nữ nhỏ

Bát Bạch

8-1: Tổn hại trung nam, bệnh nhiều về: tai , đường máu, cầu thận
8-2: Sinh nhiều bệnh tật, tổn hại mẹ già, thiếu niên lao khổ học hành khó khăn. Sinh vượng thì gia tăng tài lộc, gia chủ rất tốt cả về công ăn việc làm và may mắn.
8-3: Bất lợi, ly hôn, hại thiếu nam
8-4: Cô quả, khó sinh nở, hại thiếu nam
8-5: Bệnh tật, tai nạn, hại thiếu nam
8-6: Văn tài, thông minh cát lợi, sinh quý tử
8-7: Sinh vượng thì rất tốt với thiếu nam và thiếu nữ, tài lộc đại cát đại lợi.
8-8: Đại cát, sinh nhiều con trai
8-9: Đinh tài đều vượng nhiều hỷ sự

Cửu Tử

9-1: Cách Thuỷ Hoả Ký Tế lợi văn chương, có nhiều danh vọng, công danh tốt.
9-2: Suy thì sinh nhiều bệnh tật, bệnh mắt và bệnh phụ khoa
9-3: Quan phi khẩu thiệt. Nếu sinh vượng sinh văn sĩ
9-4: Đào hoa, hao tài
9-5: Nhiều bệnh tật, hoả tai
9-6: Suy thì sinh nhiều bệnh tật, đặc biệt là bệnh não, hay bị thổ huyết, tù tội hoặc quan hình
9-7: Suy thì dẫn đến phá tài, tổn hại thiếu nữ, thưa kiện mà quan phi thì khẩu thiệt
9-8: Cát lành hỷ sự
9-9: Bệnh mắt bệnh thần kinh, sinh vượng thì tốt

Sự Tương Quan Của Ngũ Hành
Sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau được thể hiện qua những hình thức sau:

 

 

juyghlk.

Ngũ hành tương sinh

Mọi vật thể muốn phát triển cần được sự hổ trợ, nuôi dưỡng từ những vật thể khác. Do đó, quan hệ tương sinh là biểu hiện quá trình tăng trưởng và phát triển của sự vật.

Nguyên lý ngũ hành tương sinh là:

– KIM tương sinh THỦY
– THỦY tương sinh MỘC
– MỘC tương sinh HỎA
– HỎA tương sinh THỔ
– THỔ tương sinh KIM.

Kim sinh Thủy không phải là vì Kim bị đốt nóng sẽ chảy ra thành nước, vì Kim lúc đó tuy ở dạng thể mền lỏng, nhưng đỏ chói, nóng bỏng nên sao có thể gọi là “Thủy” được.

Thật ra, nguyên lý Kim sinh Thủy của cổ nhân là vì lấy quẻ CÀN là biểu hiện của Trời, mà Trời sinh ra mưa để tưới nhuần vạn vật, nên Thủy được phát sinh từ Trời.

Quẻ CÀN thì có hành Kim nên chúng ta có ý là Kim sinh Thủy. Mặt khác, trong Hậu thiên Bát quái của Văn Vương, Thủy là nguồn gốc phát sinh của vạn vật.

Nếu không có Thủy thì vạn vật không thể phát sinh trên trái đất. Cho nên khi lấy CÀN (KIM) sinh KHẢM (THỦY) cũng chính là triết lý của người xưa nhìn nhận nguồn gốc của sự sống trên trái đất là bắt nguồn từ Trời, là hồng ân của Thượng Đế.

Do đó, trong các nguyên lý tương sinh của Ngũ hành, Kim sinh Thủy là 1 nguyên lý tâm linh, triết lý và vô hình, và cũng là nguyên lý tối cao của học thuyết Ngũ hành tương sinh, vì nó là sự tương tác giữa Trời và Đất để tạo nên vạn vật.

Còn những nguyên lý tương sinh còn lại chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau trên trái đất để duy trì sự sống mà thôi, nên cũng dễ hiểu và dễ hình dung hơn.

Ngũ hành tương khắc

Mọi vật thể khi bị sát phạt, khắc chế sẽ đi đến chỗ tàn tạ, thoái hóa. Do đó, quan hệ tương khắc là để biểu hiện quá trình suy vong và hủy diệt của sự vật.

Nguyên lý của Ngũ hành tương khắc là:

– KIM tương khắc MỘC.
– MỘC tương khắc THỔ.
– THỔ tương khắc THỦY.
– THỦY tương khắc HỎA.
– HỎA tương khắc KIM.

Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt.

Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi.

Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy.

Ngũ hành phản sinh

Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại.

Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong.

Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.

Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
– Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
– Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
– Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
– Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
– Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

Ngũ hành phản khắc:

Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.

Ngũ hành phản khắc có nguyên lý là:
– Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
– Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
– Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
– Thủy có thể khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy không đủ để khắc mà cạn khô.
– Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.

Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa.

Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không phi tinh mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẳng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7.

Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc.

Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc.

Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi.

Sơn, Hướng, và Nguyên Long

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn

Hậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6).

Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa (trung cung) nêm không có phương hướng. Đem áp đặt Hậu thiên Bát quái lên la bàn gồm 360 độ, thì mỗi hướng (hay mỗi số) sẽ chiếm 45 độ trên la bàn.

Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (thời nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác.

Nhưng sau này, khi bộ môn Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch quá nhiều.

Để cho chính xác hơn, người ta lại chia mổi hướng ra thành 3 sơn đều nhau, mổi sơn chiếm 15 độ. Như vậy trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 sơn. Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can) và 4 quẻ Càn-Khôn- Cấn-Tốn mà đặt tên cho 24 sơn như sau:

Tất cả 24 sơn trên la bàn đều được xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ.

Chẳng hạn như hướng BẮC có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, sơn NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa hướng BẮC, còn sơn QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả các sơn khác cũng đều theo thứ tự như thế.

Mỗi sơn được xác định với số độ chính giữa như: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ từ 0-15 độ; SỬU 15 – 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;

Phần trên là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ đó người ta có thể tìm ra phạm vi của mổi sơn chiếm đóng trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm.

Mỗi bên là 7 độ 5 (vì phạm vi mổi sơn chỉ có 15 độ). Chẳng hạn như hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức là trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5.

Sau đó từ tọa độ trung tâm là 210 độ lại đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức là cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy phạm vi sơn MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn. 

Chính Hướng và Kiêm Hướng

Một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là thế nào là Chính Hướngkiêm Hướng?

Thật ra, điều này cũng không khó khăn gì cả, vì khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn (bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính Hướng.

Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít.

Nếu kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh (điều này sẽ nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long).

Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mổi sơn làm trung tâm mà tính. Chẳng hạn như sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ.

Nếu bây giờ 1 căn nhà có hướng là 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5), nhưng kiêm bên phải 5 độ.

Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy thì người ta lại không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó.

Như trong trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng hướng MÙI là hướng KHÔN, nên người ta sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ” tức là kiêm sang bên phải 5 độ mà thôi.

Bởi thế tôn chỉ của huyền không vẫn là chuyện thuần khí. Khí đã thuần thì có khả năng kiêm nhiều, khí không thuần thì dù 1 độ cũng không kiêm.

Còn những tuyến vị đại-tiểu không vong chỉ là những độ đề ra sự kiêm hướng lạc lối quẻ (đại không vong) hoặc âm-dương (tiểu không vong) đã đến mức độ nhiều nhất, vô cùng nguy hiểm rồi vậy.
Ví dụ : hai sơn tý và quý thuộc hướng bắc được chia tách bởi tuyến vị 7 độ 5 , nên về mặt sách vở thì là vì tuyến tiểu không vong chính.

Tuy nhiên vì tý là âm sơn, thuộc thiên nguyên long ; còn quý đồng thời là âm sơn, thuộc nhân nguyên long. Giữa chúng thiếu hẳn sự khác lạ về âm-dương ( vì cùng là âm sơn ) hay phẩm chất ( cùng thuộc hướng bắc ).

Vì vậy kể cả những nhà có tuyến vị là 7 độ 5 (tức cùng lúc với tuyến tiểu không vong) cũng không sao cả.   ??????3 ) những tuyến nằm ở giữa 2 sơn, tuy nhiên 1 sơn là nhân nguyên long, 1 sơn là địa nguyên long: đây là tình huống của những tuyến đại không vong đã nói ở phần trên.
Như thế nếu xét kỹ thì thật ra trên la bàn chỉ có 8 tuyến đại không vong và 8 tuyến tiểu không vong chính mà thôi.

Cạnh chúng còn có thêm 1 số tuyến nằm trong cự ly 1 độ 5 ở 2 bên cũng đều được biết đến những tuyến vị đại-tiểu không vong cả. C

òn bên cạnh đó, những tuyến vị nằm ở giữa 2 sơn thuộc thiên nguyên long và nhân nguyên long trên thực tế không phải là không vong.

Còn những tuyến nằm ở giữa 2 sơn thuộc nhân nguyên long và địa nguyên long là tình huống đại không vong rồi vậy.
Xét về độ tác hại thì những hướng tiểu không vong cũng tạo ra nhiều tai họa cho những người sống trong ngôi nhà đó, như các thành viên trong nhà đổ vỡ, ly hôn, tài lộc hao tán, dễ dàng bị thưa kiện, hình ngục, người sống trong gia đình cũng thường bất chính, hay sai phạm quy luật, vi phạm pháp luật hoặc lấy đồ của người khác, hung bạo, lại dễ thấy ma quỷ …

Bởi thế sách trạch vận tân án mới viết những nhà phạm tuyến tiểu không vong ( tức âm-dương sai thố ) thì thường là tiến, thoái lưỡng nan, không tạo lập nổi uy, thanh danh. Lại chuốc khiếu kiện, tai tiếng, tạo nên bại cục ( cách thất trận ) , tổn thất công lao.

Ngoài các tuyến đại-tiểu không vong bên trên thì trong 1 số sách vở còn nhắc đến những đường định giới của 64 quẻ tiên thiên, và cũng xem những tuyến là vì đại không vong. Rồi gộp hết tổng cộng những tuyến đó, cộng với những tuyến đại-tiểu không vong chính và gọi chúng là những tuyến bất khả lập ( tức những tuyến vị chẳng thể chọn để lập hướng nhà hay mộ ).

Dẫu vậy, nếu xét kỹ thì thấy những đường định giới của 64 quẻ tiên thiên thật ra cũng cùng lúc với những tuyến vị phân châm hoặc phân kim trên tưởng bàn ( tức 1 loại la bàn do tưởng đại hồng làm ra ).

Mà trong đó, cách tính để chia tuyến vị của 64 quẻ tiên thiên như sau : lấy 64 quẻ chia cho 8 hướng , thì mỗi hướng có 8 quẻ.

Mỗi hướng tổng số có 45 độ , chia cho 8 quẻ thì mỗi quẻ chiếm 5 độ , còn thừa 5 độ. để phân bố cho đều đặn, tưởng đại hồng xếp 5 quẻ tiên thiên vào đoạn giữa của mỗi hướng ( tỗng cộng là 40 độ ).

Còn địa phận tiếp giáp với giữa mỗi hướng thì để chừa ra mỗi bên là 2 độ 5 ( tổng số là 5 độ ). Nơi đây được xem là nơi xuất quái ( đi ra khỏi quẻ hay hướng ).
Như thế là, tổng số độ số của 8 quẻ ( 40 độ ) và chỗ trống ở gần định giới giữa 2 hướng ( 5 độ ) là 45 độ , tức đã chứa đựng hết 1 hướng.

Nếu tính như thế là thì toàn bộ mọi tuyến vị chính giữa của 24 sơn đều nằm ở trên đường định giới của 64 quẻ dịch.
Là vì nguyên nhân vì sao có 1 số trường phái phong thủy ( đặc biệt là tam hợp phái ) thường tâm niệm rằng tuyến vị chính giữa của 24 sơn là những tuyến đại không vong , vì vậy lúc lập hướng nhà hay mộ thì họ thường tránh những tuyến vị đó, mà kiêm sang bên hữu hoặc trái 3 độ , chứ không đủ can đảm lấy đơn hướng.
đây chính là 1 lỗi lầm, không những vì họ đã không hề hay biết tới điều hướng nhà phải thuần khí, mà lại có khả năng kiêm là sai độ số, vì không phải tọa-hướng nào cũng có khả năng kiêm 3 độ , mà lại phụ thuộc vào những sơn mà chúng nằm là âm hay dương.
Ngoài ra, hướng kiêm 3 độ đồng thời là lằn định giới giữa chính hướng và kiêm hướng , nên nếu kiêm không cẩn trọng, hướng đó có khả năng đã ra bên ngoài chính hướng và thuộc về kiên hướng , nên nhiều khả năng đang từ tốt đang dần trở thành xấu …
Không những thế, vì các sách vở cổ kính hoặc đã thất bản , hoặc cố ý không nhắc đến nguyên nhân vì sao lại đem 64 quẻ tiên thiên vào trong la bàn. Tuy nhiên theo thiển ý của tác giả thì dường như chỉ là sử dụng để phụ tiên liệu thêm phẩm chất của từng hướng nhà mà thôi ( như tình huống nhị thập bát tú … ) , chứ không phải mục tiêu là để chọn phương hướng.
Bởi vậy mà mặc dù tưởng đại hồng vẫn đưa 64 quẻ tiên thiên vào trong la bàn do ông sản xuất, tuy nhiên lúc lựa chọn hướng thì vẫn lấy đơn hướng ( có nghĩa là chèn lên đường định giới của quẻ dịch ). điều đó chứng minh đường định giới của 64 quẻ tiên thiên thật ra không có giá trị gì về phương diên lập hướng cả.
đối với các nhà phạm tuyến đại-tiểu không vong mặc dù rất xấu , nhưng giả sử biết cách hóa giải thì cũng có khả năng biến xấu thành tốt mà xử dụng được , chứ cũng không phải quyết tâm vì chúng thuộc những tuyến bất khả lập nên triệt để không xử dụng được. Chuyện này sẽ được nói trong 1 cơ duyên khác.
Hơn thế nữa, đối với tình huống những nhà có tọa-hướng thuộc thiên nguyên long kiêm nhân nguyên long, hoặc nhân nguyên long kiêm thiên nguyên long mặc dù nhiều khả năng kiêm nhiều mà không sợ phạm không vong, tuy nhiên luôn phải kiêm đúng france độ , tùy vào tọa-hướng thuộc sơn dương hay âm. Nếu thuộc sơn dương thì có khả năng kiêm tới 7 độ , nếu là sơn âm thì chỉ có thể kiêm tới 6 độ mà thôi.

Phương Pháp Chọn Hướng Nhà (Phần 5)

Thành môn

Trong việc chọn tọa-hướng cho nhà ở (hay phần mộ), ngoài những vấn đề đã được nêu ra thì còn cần để ý tới khu vực 2 bên phía trước như thế nào để có thể dùng bí quyết của “Thành môn”.

Thành môn, tức cổng thành, là nơi ra, vào thành cũng là chỗ dẫn nước ra, vào ở phía dưới. Cho nên Thành môn chính là cửa ngõ để vào huyệt, hoặc nơi thủy đến, thủy đi, thủy hội tụ ở 2 bên phía trước. Đối với nhà cửa thì nếu khu vực đó có ngõ rẽ vào nhà hay ngã ba, ngã tư, ao, hồ, biển, hoặc chỗ 2 dòng sông tụ hội… thì những nhà đó được xem như có Thành môn.

Thành môn cũng được chia ra làm 3 loại như sau:

1) Thành môn chính: nằm ở những khu vực mà khi kết hợp với khu vực ở đầu hướng sẽ hợp thành những số Tiên thiên như 1-6, 2-7, 3-8, 4-9.

Thí dụ: Căn nhà hướng NAM, có ngõ vào nhà nằm ở khu vực phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN mang số 4, còn NAM thuộc quẻ LY mang số 9, hợp thành số Tiên thiên 4-9, nên ngõ vào nhà đó được coi là Thành môn chính.

2) Thành môn phụ: chỉ là những vị trí nằm bên cạnh đầu hướng, nhưng không có sự tương hợp thành những số Tiên thiên như ở trên.

Thí dụ: Nhà hướng NAM, nhưng có ngõ vào nhà ở khu vực TÂY NAM. Vì NAM là số 9, TÂY NAM là số 2, giữa 2 khu vực này không có sự tương hợp thành số Tiên thiên, nên đây là Thành môn phụ.

3) Thành môn ngầm: ngoài Thành môn chính (được gọi là “Chính mã”) và Thành môn phụ (được gọi là “tá mã”), còn có Thành môn ngầm, nhưng cũng được chia thành 2 loại như sau:

  1. a) Khi an vận bàn mà vận tinh Ngũ Hoàng tới 1 trong 2 phía bên cạnh đầu hướng. Nếu nơi đó có thủy hay cửa khẩu, ngõ ra vào… thì cũng được coi là Thành môn.

Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8, nên khi an vận bàn thì vận tinh Ngũ Hoàng sẽ đến phía TÂY NAM. Nếu nơi này có ngã tư, ngõ vào nhà, ao, hồ… thì được xem là Thành môn ngầm. Sở dĩ như thế là vì trong mỗi vận, khu vực có vận tinh Ngũ Hoàng bao giờ cũng là khu vực của Linh Thần (xin xem lại bài “Chính Thần và Linh Thần”), nên khi khu vực này có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì được xem như Linh thần đắc thủy, chủ đại vượng cho nhà cửa trong vận đó. Vì vậy nó mới được xem như 1 loại Thành môn mà thôi.

-Khi các vận, sơn hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng lại kết hợp với địa bàn tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu vực đó có cổng, ngã ba, ao, hồ, núi cao… thì cũng được xem như có Thành môn.

Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (tức hướng ĐÔNG, 75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu chúbng ta an Vận bàn có vận tinh số 6 đến hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà địa bàn của nó là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8. Nếu nơi này có thủy hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.

Đối với Huyền không Học, việc xác định Thành môn là 1 yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương vị tọa hướng cho ngôi nhà hay phần mộ. Bởi vì như Thẩm trúc Nhưng nói:”Thành môn là nơi then chốt để khí tiến vào huyệt”, hoặc như Bạch hạc Minh xem nó “giống như yết hầu của con người”. Cho nên Thành môn chính là nơi nắm giữ vận khí của chân long địa huyệt hay nhà cửa. Nếu nó tốt thì dù nhà cửa hay phần mộ có gặp hướng xấu, hay bị hung khí xung sát cũng vẫn bình yên, hoặc có thể hóa hung thành cát mà làm cho nhà đó vẫn vượng phát.

Riêng đối với những căn nhà đã lập phương hướng đúng phép mà lại còn đắc Thành môn thì chẳng khác nào áo gấm thêm hoa, tài lộc và nhân đinh sẽ hưng thịnh 1 thời. Cho nên sách mới có câu:”Bí quyết Thành môn là cực tốt (tối vi lương), cất nhà, lập mộ thì đại cát”.

Tuy nhiên, cách dùng Thành môn không phải cứ hễ thấy ở 2 bên đầu hướng có cổng, ngã ba, ngã tư hay sông nước là có thể xử dụng, mà còn phải theo những nguyên tắc căn bản sau đây:

– Tọa-hướng nhà phải đồng Nguyên long với khu vực có cổng, cửa hoặc sông nước ở 2 bên đầu hướng. Điều này đã nói rõ trong bài “Phương pháp chọn hướng nhà (1)”, phần bàn về vấn đề thuần khí (chỉ có sự khác biệt là với vấn đề thuần khí thì có thể lấy được cả những cổng, ngõ, nơi có thủy… tại bất cứ khu vực nào, miễn là được đồng nguyên với hướng; còn Thành môn thì chỉ lấy được ở 2 phía bên cạnh hướng mà thôi).

Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8. Vì nhà này hướng NGỌ (tức hướng NAM), nên khi chọn Thành môn thì chỉ có thể lấy ở khu vực 2 bên của đầu hướng, tức là 2 phía ĐÔNG NAM và TÂY NAM. Do đó, nếu ở sơn TỐN thuộc phía ĐÔNG NAM, hoặc sơn KHÔN thuộc phía TÂY NAM có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì nhà đó có Thành môn. Còn những khu vực THÌN, TỴ của ĐÔNG NAM, cũng như MÙI, THÂN của TÂY NAM tuy cũng nằm ở 2 bên hướng, nhưng do không đồng nguyên với tọa-hướng nên không thể lấy làm Thành môn.

– Khu vực của Thành môn cũng phải đắc vượng khí của Phi tinh, có như thế mới hóa giải được khí xấu nơi đầu hướng, hoặc làm cho sinh khí ở hướng này càng tốt đẹp. Nhưng muốn biết vượng khí có tới Thành môn hay không, thì không phải căn cứ vào Hướng tinh tại đó để xác quyết, mà phải xem Thành môn nằm ở sơn hướng nào (trong 24 sơn)? Sơn đó trùng với sơn nào của vận tinh tới khu vực đó? Rồi mới đem vận tinh đó nhập trung cung, xoay chuyển theo chiều thuận (hay nghịch) tùy theo sơn của vận tinh đó là dương hay âm. Nếu số đến khu vực của Thành môn cũng tương đồng với đương vận thì tức là có vượng khí đến Thành môn.

* Thí dụ: cũng lấy nhà tọa TÝ hướng NGỌ ở trên. Nếu an vận bàn của vận 8 thì vận tinh số 5 đến TÂY NAM, vận tinh số 7 đến ĐÔNG NAM. Vì phía TÂY NAM chỉ có sơn KHÔN có thể chọn làm Thành môn, mà KHÔN thuộc dương nên lấy 5 nhập trung cung xoay thuận thì 2 đến KHÔN, là tử khí trong vận 8 nên không thể dùng (tuy nhiên, vì vận tinh 5 tới phía TÂY NAM tạo thành cách “Thành môn ngầm”, nên lại là 1 cách khác). Kế đó, quay sang vận tinh số 7 ở ĐÔNG NAM. Vì chỉ có sơn TỐN mới có thể chọn làm Thành môn, mà TỐN trùng với sơn DẬU của số 7, là sơn âm nên lấy 7 nhập trung cung xoay nghịch thì 8 đến TỐN, là vượng khí của vận 8, nên nơi này có thể dùng làm Thành môn. Vì vậy, nếu phương TỐN của nhà này mà có cổng, ngõ vào nhà, thủy khẩu… thì tài lộc sẽ đại vượng.

Về mức độ tác dụng của các loại Thành môn thì Thẩm trúc Nhưng thường cho rằng Thành môn chính có tác dụng mạnh hơn Thành môn phụ, nhưng ông không nói gì tới hiệu lực của Thành môn ngầm. Tuy nhiên nếu nhìn thì cũng có thể thấy là tác dụng của Thành môn ngầm phải yếu hơn Thành môn phụ. Nhưng vì không phụ thuộc vào việc bảo vệ nguyên khí cho tọa-hướng, nên Thành môn ngần không bị giới hạn trong phạm vi 1 sơn, mà có thể bao hàm hết cả 1 hướng.

Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ trong vận 8, khu vực phía TÂY NAM có vận tinh số 5 đắc Thành môn ngầm. Thành môn này có thể chiếm hết 3 sơn MÙI-KHÔN-THÂN của hướng TÂY NAM, chứ không bị giới hạn trong 1 sơn như những Thành môn chính hay phụ, nhưng tác dụng của nó cũng yếu hơn 2 loại Thành môn kia.

Ngoài ra, về thời gian ảnh hưởng của Thành môn đối với 1 căn nhà hay 1 địa huyệt thì tùy theo từng loại Thành môn mà sẽ rất lâu dài hay chỉ ngắn ngủi trong 1 vận. Điều này sẽ được nói trong 1 dịp khác.

Phối hợp Phi tinh với địa hình (loan đầu)

Ngoài những vấn đề kể trên thì còn phải để ý đến địa hình bên ngoài xem có phù hợp với Phi tinh hay không?

Nói địa hình (hay loan đầu) phù hợp với Phi tinh tức là những nơi có thủy của sông, hồ, ao biển, hoặc đường đi, sân rộng, đồng trống… phải nằm trùng với những nơi có sinh khí hay vượng khí của Hướng tinh. Còn những nơi có núi đồi, gò cao, hay nhà cửa, cây cối… thì phải nằm trùng với những khu vực có sinh khí hay vượng khí của Sơn tinh.

Tuy nhiên, vì những điều này đã được nói khá nhiều trong những bài trước đây như “VƯỢNG SƠN, VƯỢNG HƯỚNG”, “THƯỢNG SƠN, HẠ THỦY”, “THU SƠN, XUẤT SÁT”… cho nên bạn đọc có thể đọc kỹ những bài đó để am tường vấn đề phối hợp giữa loan đầu và Phi tinh.

Tam nguyên long

Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi.

Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:

– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: sơn CÀN, sơn KHÔN, sơn CẤN, sơn TỐN.
* 4 sơn âm là: sơn TÝ, sơn NGỌ, sơn MÃO, sơn DẬU.

– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: sơn GIÁP, sơn CANH, sơn NHÂM, sơn BÍNH.
* 4 sơn âm: sơn THÌN, sơn TUẤT, sơn SỬU, sơn MÙI.

– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: sơn DẦN, sơn THÂN, sơn TỴ, sơn HỢI.
* 4 sơn âm: sơn ẤT, sơn TÂN, sơn ĐINH, sơn QUÝ.

Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận ở 1 mục khác).

Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long ta sẽ thấy trong mổi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ 3 Nguyên, đó là: Địa, ThiênNhân, hướng theo chiều thuận kim đồng hồ.

Ví dụ như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ
với NHÂM thuộc Địa nguyên long (trái) Nghịch tử
TÝ thuộc Thiên nguyên long (giữa) quẻ Phụ mẫu
và QUÝ thuộc Nhân nguyên long (phải) Thuận tử

Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.

– Ví dụ: Nhà hướng MÙI 205 độ. Vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ cũng vẫn nằm trong hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng Đinh 5 độ. Vì hướng MÙI là thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là bị phạm xuất quái, chủ tai họa, bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà có hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu. Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà thì bình thường, con người cũng chỉ nhỏ mọn, tầm thường mà thôi. Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Những điều này sẽ đuoc nói rõ hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng.

Ví dụ như hướng NAM được chia thành 3 sơn là BÍNH – NGỌ – ĐINH.
với BÍNH thuộc Địa nguyên long (trái) Nghịch tử
Còn NGỌ thuộc Thiên nguyên long (giữa) gọi là quẻ Phụ mẫu
và còn ĐINH thuộc Nhân nguyên long (phải) gọi là Thuận tử

Phương Pháp Lập Tinh Bàn

Muốn lập tinh bàn (hay trạch vận) cho 1 căn nhà (hay 1 ngôi mộ) thì vấn đề trước tiên là chúng ta hỏi  để  biết căn nhà hay (ngôi mộ) thời gian khởi công và hoàn thiện? Rồi dựa vào bảng Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất mà xác định nhà đó thuộc vận nào? Thí dụ như 1 căn nhà được xây xong vào tháng 6 năm 1984. Nếu nhìn vào bảng Tam Nguyên Cửu Vận gần đây thì thấy Vận 7 bắt đầu từ 1984 và kết thúc vào cuối năm 2003, cho nên biết nhà đó thuộc vận 7 Hạ Nguyên.

Nhưng vấn đề xác định nhà thuộc vận nào trở nên rắc rối và phức tạp khi 1 căn nhà đã được xây xong khá lâu, sau đó được chủ nhà tu sửa hay xây lại nhiều lần. Hoặc sau khi xây xong thì căn nhà đã được đổi chủ… Đối với những căn nhà trên thì việc xác định căn nhà thuộc vận nào là phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:

– Nếu sau khi vào ở 1 thời gian rồi chủ nhà hoặc là dỡ mái lợp lại (nếu là nhà trệt), hoặc là tu sửa quá 1/3 diện tích căn nhà, hoặc là đập đi xây mới thì căn nhà sẽ không còn thuộc về vận cũ lúc mới xây nhà hay dọn vào nhà ở nữa, mà sẽ thuộc về vận là lúc gia chủ thực hiện những việc tu sửa trên.

– Nếu căn nhà được đổi chủ (vì bán hoặc cho thuê) thì khi lập tinh bàn căn nhà cho chủ mới thì phải dựa vào thời điểm họ dọn vào nhà này ở, chứ không dựa vào thời điểm lúc xây nhà. Nếu 1 căn nhà được đổi chủ nhiều lần, thì khi lập tinh bàn cho người chủ nào thì chỉ dựa vào thời điểm người đó dọn vào căn nhà để ở là thuộc vận nào. Cũng lấy thí dụ căn nhà ở trên, xây xong và dọn vào ở tháng 6 năm 1984 nên căn nhà thuộc vận 7. Nhưng nếu vào năm 2000 người chủ đó bán nhà cho 1 người khác. Khi người này dọn vào ở trong năm đó thì trạch vận căn nhà vẫn thuộc vận 7 (vì vận 7 bắt đầu từ năm 1984 và kết thúc vào cuối năm 2003). Nếu người này ở tới năm 2005 rồi lại bán nhà đi nơi khác, thì khi người chủ mới dọn về nhà này thì trạch vận căn nhà của họ lại thuộc về Vận 8 (vì Vận 8 bắt đầu từ năm 2004 và kết thúc vào cuối năm 2023) Cho nên tùy thời điểm mà gia chủ dọn vào căn nhà là thuộc vận nào mà tính trạch vận cho họ thuộc vận đó.

– Đối với những căn nhà vừa tu sửa như trường hợp 1, vừa thay đổi chủ như trường hợp 2 thì trường hợp nào xảy ra gần nhất thì trạch vận của căn nhà sẽ thuộc về Vận đó. Cũng lấy thí dụ căn nhà xây năm 1984 (nhà thuộc vận 7), sau đó bán lại cho 1 người khác vào năm 2000 (nhà vẫn thuộc vận 7). Nhưng đến năm 2004 thì người này tu sửa nhà lại nên nhà lúc đó sẽ thuộc về vận 8. Đến khi người đó bán nhà vào năm 2005 thì căn nhà cũng vẫn thuộc vận 8 đối với chủ mới.

Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa nguyên long kiêm Nhân nguyên long thì được coi  xuất quái.

– Đối với những căn nhà tuy không đổi chủ hay được tu sửa, nhưng nếu chủ nhà đóng cửa đi vắng 1 thời gian từ hơn 1 tháng trở lên, đến khi họ trở về thì căn nhà sẽ thuộc về Vận vào lúc họ trở về, chứ không còn thuộc về Vận cũ nữa. Cũng lấy thí dụ nhà xây năm 1984, người chủ sau khi mua ở đó được hơn 20 năm. Tới năm 2006 người đó có công chuyện phải đi xa hơn 2-3 tháng mới về. Như vậy khi người này trở về nhà thì lúc đó vận của căn nhà đã chuyển sang Vận 8, vậy chúng ta không  Vận 7 nữa.

– Đối với những căn nhà được xây hay dọn vào ở trong những năm cuối của 1 vận thì trạch vận của căn nhà thường là thộc về vận mới, chứ cũng không thuộc về vận cũ nữa. Thí dụ như những căn nhà được xây hay được dọn vào ở năm 2003, tức là năm cuối cùng của Vận 7 thì trạch vận của căn nhà sẽ thuộc về Vận 8, chứ không thuộc về Vận 7 nữa.

– Riêng với âm phần (mồ mả), thì trạch vận được tính vào lúc ngôi mộ mới được xây, hoặc lúc sau này con cháu cải táng hay tu sửa mộ bia lại. Chẳng hạn như 1 ngôi mộ được dựng lên vào năm 1987 thì thuộc Vận 7, đến năm 2006 thì con cháu xây mộ, thay bia lại thì lúc đó mộ lại thuộc về Vận 8.

Khi đã biết cách xác định nhà (hay mộ) thuộc Vận nào thì mới có thể lập tinh bàn cho căn nhà (hay phần mộ đó). Nhưng trước hết lấy 1 tờ giấy trắng vẽ 1 ô vuông lớn, sau đó chia ô vuông đó ra làm 9 ô nhỏ, với 8 ô chung quanh tiêu biểu cho 8 hướng: BẮC, ĐÔNG BẮC, ĐÔNG, ĐÔNG NAM, NAM, TÂY NAM, TÂY, và TÂY BẮC. Và theo quy ước ô trung cung là ở giữa. Sau đó mới có thể tiến hành việc lập tinh bàn.

Lập Vận bàn

Muốn lập Vận bàn thì lấy số của Vận mà căn nhà (hay ngôi mộ) đó thuộc về đem nhập trung cung, nhưng an ở trên cao và chính giữa của trung cung, rồi di chuyển THUẬN theo vòng Lượng thiên Xích.

Thí dụ nhà xây năm 1984 tức thuộc Vận 7. Như vậy, lấy số 7 nhập trung cung, sau đó theo chiều thuận an số 8 tại phía TÂY BẮC, số 9 tại phía TÂY, số 1 tại phía ĐÔNG BẮC, số 2 tới cung NAM, số 3 tới cung BẮC, số 4 tới cung TÂY NAM, số 5 tới cung ĐÔNG, số 6 tới cung ĐÔNG NAM. Tất cả những số đó đều được gọi là “Vận tinh” (tức phi tinh của Vận) của căn nhà này, và đều được an ở trên cao và chính giữa của mỗi cung. Điều nên nhớ khi lập Vận bàn là phi tinh chỉ di chuyển “THUẬN”, tức là từ số nhỏ lên số lớn, chứ không bao giờ đi chuyển “NGHỊCH” từ số lớn xuống số nhỏ hơn.

Lập Sơn bàn

Theo thuật ngữ Phong thủy, “Sơn” (có nghĩa là núi) dùng để chỉ khu vực phía sau nhà (tức phương “tọa”). Cho nên sau khi đã an Vận bàn thì nhìn xem số nào tới khu vực phía sau của căn nhà. Lấy số đó đem nhập trung cung, nhưng để tại góc dưới mé bên trái. Lúc này cần phải biết tọa của căn nhà thuộc sơn nào, rồi PHỐI HỢP với Tam Nguyên Long của Vận tinh tới phương tọa để quyết định di chuyển theo chiều “THUẬN” hay “NGHỊCH”.

Thí dụ như căn nhà có hướng là 0 độ thì phương tọa của căn nhà sẽ là 180 độ (vì tọa bao giờ cũng xung với hướng, tức là cách nhau 180 độ). Như vậy căn nhà này sẽ là tọa NGỌ hướng TÝ. Nếu xây năm 1984 tức thuộc Vận 7, nên lấy số 7 nhập trung cung di chuyển Thuận như đã nói ở trên thì 2 tới NAM tức phương tọa của nhà này. Bây giờ muốn lập Sơn bàn thì phải lấy số 2 nhập trung cung (để ở góc dưới mé bên trái), …………………………… Vì số 2 (tức hướng TÂY NAM) có 3 sơn là MÙI-KHÔN-THÂN, với MÙI thuộc âm và KHÔN-THÂN thuộc dương trong Tam nguyên Long. Mà tọa của căn nhà là nằm nơi phía NAM. Phía NAM cũng có 3 sơn là BÍNH-NGỌ-ĐINH. Vì trong Vận 7, ………………………………………………………..Nhưng vì chính tọa của căn nhà là nằm tại sơn NGỌ, tức là trùng với sơn KHÔN của số 2. Vì sơn KHÔN là thuộc Dương trong Tam Nguyên Long, cho nên mới lấy số 2 nhập trung cung rồi di chuyển theo chiều “THUẬN”, tức là số 3 tới TÂY BẮC, số 4 tới TÂY, số 5 tới ĐÔNG BẮC, số 6 tới NAM, số 7 tới BẮC, số 8 tới TÂY NAM, số 9 tới ĐÔNG, số 1 tới ĐÔNG NAM. Tất cả những số này đều được gọi là “Sơn tinh” (tức phi tinh của phương tọa) của trạch vận, với sơn tinh số 6 nằm tại phương tọa (tức phía NAM) của căn nhà này. Mọi Sơn tinh đều được an tại góc phía dưới bên trái của mỗi cung, để tiện phân biệt giữa chúng với “Vận tinh” Và “Hướng tinh”.

Lập Hướng bàn

Sau khi đã lập xong “Sơn bàn” thì bắt đầu tới việc lập Hướng bàn. Việc lập Hướng bàn cũng tương tự như việc lập Sơn bàn, tức là tìm “Vân tinh” tới phía trước nhà là số nào? Lấy số đó đem nhập trung cung, nhưng để nơi góc phía dưới mé bên phải. Sau đó cũng phải xác định hướng của căn nhà là thuộc sơn nào? Rồi PHỐI HỢP với Tam nguyên Long của Vận tinh tới hướng mà quyết định di chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH”.

Cho nên nếu vẫn lấy thí dụ là căn nhà tọa NGỌ hướng TÝ, nhập trạch trong Vận 7 như ở trên thì sẽ thấy Vận tinh số 3 tới hướng. Vì số 3 thuộc phía ĐÔNG, gồm 3 sơn GIÁP-MÃO-ẤT, với GIÁP thuộc dương, còn MÃO- ẤT thuộc âm trong Tam Nguyên Long. Còn hướng nhà nằm về phía BẮC, cũng có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ. Đem áp đặt 3 sơn GIÁP-MÃO-ẤT của số 3 lên 3 sơn NHÂM-TÝ-QUÝ của phía BẮC, nhưng vì chính hướng của căn nhà là thuộc sơn TÝ, tức trùng với sơn MÃO của số 3. Vì sơn MÃO thuộc âm trong Tam nguyên Long, cho nên lấy số 3 nhập trung cung rồi di chuyển theo chiều ”NGHỊCH”, tức là 2 tới TÂY BẮC, 1 tới TÂY, 9 tới ĐÔNG BẮC, 8 tới NAM, 7 tới BẮC, 6 tới TÂY NAM, 5 tới ĐÔNG, 4 tới ĐÔNG NAM. Tất cả những số này đều được gọi là “Hướng tinh” (tức phi tinh của Hướng) của trạch vận, với hướng tinh số 7 nằm ở hướng, nên trong Vận 7 thì nhà này được “vượng tinh tới hướng” nên được xem là 1 nhà tốt. Tất cả những Hướng tinh đều được an tại góc phía dưới mé bên phải của mỗi cung.

Như vậy, sau khi đã lập “Vận bàn” , “Sơn bàn” và “Hướng bàn” , chúng ta sẽ xác định được vị trí của mọi Vận tinh, Sơn tinhHướng tinh. Đây chính là trạch vận của 1 căn nhà hay 1 phần mộ. Như vậy, 1 trạch vận gồm có 3 tinh bàn: Vận bàn, Sơn bàn và Hướng bàn. Kết hợp nó với địa thế chung quanh và cấu trúc bên trong của 1 căn nhà, người học Phong thủy Huyền Không sẽ có thể phán đoán chính xác mọi diễn biến tốt, xấu đã, đang và sẽ xảy ra cho căn nhà đó.

Sau cùng, điều mà người học Huyền KHông cần nhớ là khi muốn lập Sơn bàn hay Hướng bàn thì nếu tọa hay hướng nhà mà trùng với “sơn” DƯƠNG của Vận tinh thì di chuyển “THUẬN”, nếu trùng với “sơn” ÂM của vận tinh thì di chuyển “NGHỊCH”. Tức là sự di chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH” của sơn và Hướng tinh là hoàn toàn do “SƠN” của Vận tinh trùng với tọa và hướng nhà là DƯƠNG hay ÂM mà thôi. Ngoài ra, chỉ có việc lập tinh bàn cho Sơn và Hướng bàn mới có trường hợp phi tinh di chuyển theo chiều “NGHỊCH”. Còn tất cả các trường hợp khác thì phi tinh đều đi chuyển theo chiều “THUẬN” tức là từ số nhỏ lên số lớn hơn.

Tam nguyên , cửu vận
Không giống như những trường phái phong thủy được hoạt động từ trước đến nay như loan đầu, mật tông, bát trạch … Huyền không không những căn cứ địa hình và hình cục trong , ngoài , mà lại dựa dẫm vào cả điều thời kỳ để tiên liệu định sự vượng, suy, được , mất của âm-dương trạch.
Một ngôi nhà nhiều khả năng được xây dựng trên 1 lô đất có địa hình tốt ( hoặc xấu ) , tuy nhiên không phải bởi đó mà nó sẽ tốt ( hay xấu ) mãi mãi, mà tùy thuộc chuyển hóa của thời kỳ sẽ đang từ vượng chuyển hướng sang suy, hay đang từ suy chuyển đổi thành vượng. Là vì nguyên nhân lý giải vì sao có nhiều hộ dân lúc mới vào ở 1 căn hộ thì kinh doanh rất khá , tuy nhiên 5 , thập niên sau lại mở đầu thoái hóa từ từ. Hay có các gia đình với nhiều năm sống trong 1 căn hộ khó khăn, bỗng tới khi những người con học hành thành tài, các thành viên trong nhà bất chợt phát hẳn lên … Vì vậy đối với phong thủy huyền không thì không chỉ chỉ là theo dõi địa thế, địa vật bề mặt, kết cấu, xây dựng phía trong ngôi nhà, mà lại phải nắm rõ từng điểm quan trọng của thời kỳ để tiên liệu định từng thời kỳ lên, xuống của 1 trạch vận ( nhà ở hay phần mộ ). Tuy nhiên thời kỳ là 1 tiến triển mơ hồ, chỉ có đi , không bao giờ trở lại , thế thì lấy gì làm căn mốc để định vị thời kỳ ? để xử lý vấn đề này, cổ nhân đã sử dụng cách chia thời kỳ ra thành từng nguyên , vận. Từng là 1 quãng thời gian dài khoảng 6 thập kỷ hay 1 lục thập hoa giáp. Mỗi nguyên lại được phân thành 3 vận, mỗi vận thời gian khoảng 2 thập kỷ. Ngoài ra, người xưa còn định ra tam từng là :

– thượng nguyên :
Gồm 3 vận 1 , 2, 3.

– trung nguyên : gồm có 3 vận 4 , 5 , 6.

– hạ nguyên : gồm có 3 vận 7, 8, 9.
Vậy là, tam nguyên cửu vận có nghĩa là 3 nguyên :
Thượng, trung, hạ, trong đó gồm có 9 vận, từ vận 1 tới vận 9. Tổng số là chu kì 180 năm, cứ từ vận 1 ( mở đầu vào năm giáp tý ) đi hết 3 nguyên ( tức 9 vận ) rồi lại trở lại vận 1 thượng nguyên thời điểm đầu tiên. Cứ như vậy xoay chuyển không dừng. Còn sở dĩ cổ nhân lại dùng chu kì 180 năm ( tức tam nguyên cửu vận ) làm mốc xoay chuyển của thời kỳ là do các hành tinh trong hệ mặt trời cứ sau 180 năm lại trở lại cùng nằm trên 1 đường thẳng. đó thực sự là năm mở màn cho vận 1 của thượng nguyên. Dùng đó làm mốc để tính thời kỳ, mọi người có khả năng xét cho cùng tam nguyên cửu vận gần đây nhất là :
Thượng nguyên :

Vận 1 : kể từ năm 1864- 1883

Vận 2 : kể từ năm 1884- 1903

Vận 3 : kể từ năm 1904- 1923.
Trung nguyên :
Vận 4 : kể từ năm 1924- 1943

Vận 5 : kể từ năm 1944- 1963

Vận 6 : kể từ năm 1964- 1983

Hạ nguyên :
Vận 7 : kể từ năm 1984- 200

Vận 8 : kể từ năm 2004- 2023

Vận 9 : kể từ năm 2024- 2043

Như thế, năm 2043 là năm sau cùng của vận 9 hạ nguyên. Bởi vậy vào năm 2044 ( tức năm giáp tý ) thì lại trở lại vận 1 của thượng nguyên , cứ như vậy xoay chuyển mãi tiếp tục. điểm quan trọng cho những người mới học huyền không phi tinh là phải nắm rõ năm nào thuộc vận và nguyên nào. Ví như năm 1980 là thuộc về vận 6 trung nguyên , vì nó nằm trong khoảng thời gian kể từ năm 1964-1983. Hoặc như năm 1991 là thuộc về vận 7 hạ nguyên , vì nó nằm trong khoảng thời gian kể từ năm 1984- 200
3. Bởi thế những nhà cửa hay phần mộ xây trong năm 1991 đều thuộc về vận 7 hạ nguyên , hay các nhà xây năm 1980 đều thuộc về vận 6 trung nguyên. Có nắm rõ được điều đó thì mới có khả năng xây dựng trạch vận cho nhà cửa hay lăng mộ được.

Share:

Facebook
Twitter
Pinterest
LinkedIn
Scroll to Top